Kĩ thuật dệt cườm tạo hoa văn của tộc người Tà Ôi

    Một số tộc người như Tà Ôi, Cơ Tu còn có kỹ thuật dệt cườm tạo hoa văn độc đáo. Để có những mảnh vải đẹp, họ phải chuẩn bị kỹ nhiều sợi ngang xâu sẵn những hạt cườm tuỳ theo hoa văn định dệt để khi dệt bố trí cho hợp lý. Hạt cườm của người Tà Ôi, Cơ Tu khá phong phú và đa dạng. Họ có thể nấu chì nóng chảy đổ lên một tảng đá, lấy que tách thành từng hạt nhỏ rồi lăn tròn tạo dáng. Hạt cây a rác bóc vỏ khi còn tươi, trông giống như hạt tiêu cũng được đục lỗ để khi khô cứng lại thành những hạt cườm. Ngày nay, hạt cườm làm bằng nhựa công nghiệp nhiều màu cũng được phụ nữ Tà Ôi ưa dùng.

Kĩ thuật dệt cườm tạo hoa văn của tộc người Tà Ôi
 
    Người Tà Ôi, Cơ Tu cũng như các tộc người Môn – Khmer vùng miền Trung và Tây Nguyên không có sách ghi chép các mẫu hoa văn trên vải mà họ thường tạo hoa văn theo trí nhớ. Vì vậy, những mẫu vải đẹp thường là sản phẩm của những người lớn tuổi, đẫ dệt vải nhiều năm, có trí nhớ tuyệt vời. Đôi khi, một người không thể nào nhớ hết tất cả các mẫu hoa văn, mà họ phải có sự hợp tác trong khi dệt bằng cách tụ tập cùng dệt với nhau tại một địa điểm để vừa trao đổi những mẫu hoa văn đã quên, đồng thời sáng tạo nhiều mẫu hoa văn mới. Dệt vải theo nhóm còn giúp họ vui vẻ trong lao động, tăng thêm sự cố kết và chia sẻ lẫn nhau trong cuộc sống.
    Tóm lại, qua quá trình nghiên cứu quy trình, dụng cụ, kỹ thuật dệt và cách tạo hoa văn trên vải của các tộc người Môn – Khmer ở miền Trung, Tây Nguyên, chúng tôi nhận thấy:
     Dụng cụ chế biến sợi bông và quy trình sản xuất sợi, quy trình dệt vải của các tộc người Môn – Khmer tương đồng với nhiều tộc người khác ở Việt Nam. Đặc biệt là có sự tương đồng với nhiều tộc người nhóm ngôn ngữ Nam Đảo sống cùng khu vực Trường Sơn, Tây Nguyên. Điều đó thể hiện sự giao thoa văn hoá tộc người và biểu hiện sắc thái văn hoá vùng đậm nét.
    Sự tương đồng này thể hiện sự giống nhau về công cụ, đặc biệt là chiếc khung dệt khố rộng dạng tấm, với những bộ phận rời rạc, chỉ liên kết thành một cơ cấu khi tiến hành dệt. Vật liên kết lại là sợi. Đặc tính kỹ thuật này phù hợp với nếp sống kinh tế và sinh hoạt của mỗi gia đình. Dù ở trình độ thô sơ, nhưng gọn nhẹ, tiện cho việc di chuyển địa điểm, dễ tận dụng thời gian để thực hiện. Dạng khung dệt này, đòi hỏi người dệt phải ngồi bệt dưới sàn nhà, không ngồi trên khung dệt như nhiều tộc người phía Bắc Việt Nam. Thêm vào đó là kỹ thuật giăng sợi với một chiều dài xác định nào đó, đồng thời có sự phân tách thành 2 tầng sợi ngay từ đầu. Mặt vải sẽ được hình thành chính nhờ sự quay đảo của hai tầng ấy. 

Từ khóa tìm kiếm nhiều: hoa văn dân tộc, trang phuc dan toc